Ngành dầu khí Việt Nam đóng vai trò trụ cột trong hạ tầng kinh tế quốc gia, đóng góp khoảng 10–13% GDP và 9–11% tổng thu ngân sách nhà nước. Ngành bao phủ toàn bộ chuỗi giá trị, từ thượng nguồn (khai thác, thăm dò – chủ yếu do Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam – PVN nắm giữ) đến hạ nguồn (lọc hoá dầu, phân phối). Điểm nhấn chiến lược gần đây là việc nhập khẩu khí LNG – lô hàng đầu tiên 70.000 tấn cập cảng Thị Vải vào tháng 7/2023 – đánh dấu bước ngoặt trong chiến lược chuyển đổi sang năng lượng sạch hơn và đảm bảo an ninh năng lượng.
Tuy nhiên, sản lượng dầu thô trong nước đã giảm mạnh, chỉ còn khoảng 188.000 thùng/ngày năm 2023, so với đỉnh hơn 500.000 thùng/ngày vào đầu những năm 2000. Trong khi đó, sản lượng khí tự nhiên đạt 7,47 tỷ m³/năm. Việc giảm thuế nhập khẩu LNG từ 5% xuống 2% cho thấy định hướng hỗ trợ tích cực từ phía chính phủ, đồng thời phù hợp với Quy hoạch điện VIII – đặt mục tiêu đạt công suất điện LNG 22,4 GW đến năm 2030.
Cơ hội đầu tư tập trung vào hạ tầng LNG, nâng cấp lọc hóa dầu và các dự án chuyển đổi năng lượng, trong khi rủi ro bao gồm biến động giá hàng hóa, suy giảm trữ lượng trong nước và căng thẳng địa chính trị trên Biển Đông.
Ngành dầu khí Việt Nam vận hành theo mô hình tích hợp dọc, với PVN đóng vai trò thống lĩnh chuỗi giá trị từ thăm dò, khai thác đến phân phối. Ngành đã chuyển đổi từ cơ chế độc quyền nhà nước sang mô hình hợp tác quốc tế thông qua các hợp đồng phân chia sản phẩm (PSC), đặc biệt là trong lĩnh vực thượng nguồn.
Tập trung vào các mỏ ngoài khơi thuộc bể Cửu Long và Nam Côn Sơn, bao gồm các mỏ lớn như Bạch Hổ, Rạng Đông, Đại Hùng, Hồng Ngọc, Sư Tử Đen. Việt Nam sở hữu trữ lượng dầu thô lớn thứ hai tại Đông Á (4,4 tỷ thùng), chỉ sau Trung Quốc, cùng với trữ lượng khí tự nhiên khoảng 150 tỷ m³. Tuy nhiên, sản lượng đã giảm mạnh do mỏ cũ suy thoái và thiếu phát hiện mới.
Có 5 hệ thống đường ống khí chính do PVN vận hành, cung cấp 9–11 tỷ m³ khí/năm – đáp ứng khoảng 35% nhu cầu điện quốc gia, 70% sản lượng urê và 70–80% khí dân dụng. Năm 2023, cảng LNG Thị Vải đi vào hoạt động, trở thành cảng LNG nhập khẩu đầu tiên tại Việt Nam, có khả năng tiếp nhận tàu 85.000 tấn và sức chứa 180.000 m³.
Việt Nam có hai nhà máy lọc dầu chính: Dung Quất (BSR) và Nghi Sơn (NSR). Dung Quất hoạt động ổn định và hiệu quả, trong khi Nghi Sơn gặp khó khăn tài chính kéo dài. Khoảng 2/3 sản lượng dầu thô được tinh chế trong nước, phần còn lại chủ yếu xuất sang Thái Lan và Úc. Dầu Việt Nam có ưu điểm lưu huỳnh thấp (<0,5%) nên được định giá cao.
Tiêu thụ xăng đạt 172.030 thùng/ngày năm 2023, tăng so với 162.490 thùng/ngày năm 2022. Dầu diesel và dầu sưởi tăng từ 192.630 lên 203.940 thùng/ngày. Sản lượng khí tự nhiên đạt 7,47 tỷ m³ năm 2023, nhưng giảm 25% trong 5 năm qua do suy giảm mỏ, thúc đẩy nhập khẩu LNG – với 400 triệu m³ được nhập bởi PV GAS năm 2024.
Việt Nam vừa là nhà sản xuất, vừa là nước nhập khẩu năng lượng lớn. Đến tháng 8/2024, nhập khẩu dầu thô đạt 8,7 triệu tấn (5,5 tỷ USD), tăng 25% về khối lượng và 20% về giá trị so với cùng kỳ 2023. Kuwait chiếm 88% tổng lượng dầu nhập khẩu. Trong khi đó, nhập khẩu xăng dầu thành phẩm đạt hơn 10 triệu m³ (8,4 tỷ USD), nhấn mạnh nhu cầu nâng cấp công suất lọc dầu trong nước.
Cảng Thị Vải (giai đoạn 1) hoàn thành năm 2023 với vốn đầu tư ~285 triệu USD, đóng vai trò cung cấp khí cho Nhơn Trạch 3 và 4 – hai nhà máy điện LNG đầu tiên, dự kiến vận hành 2025. PV GAS và PV Power đã ký hợp đồng cung ứng LNG 25 năm.
Năm 2023, ngành điện, khí, hơi nước và điều hòa không khí đóng góp 4% GDP (~409 nghìn tỷ đồng). Trong 6 tháng đầu 2023, PVN khai thác 5,3 triệu tấn dầu, vượt kế hoạch 14,3%. Trong đó dầu nội địa 4,4 triệu tấn (+16,9%) và nước ngoài 900.000 tấn (+3%). Khí khai thác đạt 4,16 tỷ m³ (+27,1%).
PV GAS đạt kết quả ấn tượng 2024, dự kiến vượt kế hoạch 50–82% ở mọi chỉ tiêu. Doanh thu gần 130.000 tỷ đồng (+10% YoY). Gồm: khí thương phẩm 6,4 tỷ m³ (102% kế hoạch), LPG nội địa 3,1 triệu tấn (166%), xuất khẩu 1,5 triệu tấn (+68%).
BSR duy trì công suất >100% nhiều năm liên tiếp, trong khi NSR lỗ lũy kế 3,3 tỷ USD từ 2018. Ở thượng nguồn, sản xuất điện đạt 12,66 tỷ kWh (+4,5%), phân bón 877.500 tấn (+10,6%).
PV GAS nắm giữ 100% thị phần khí khô, 70% khí LPG bán sỉ, 11% LPG bán lẻ. Lọc dầu: cấu trúc song mã với BSR dẫn đầu về hiệu quả, NSR định hướng xử lý dầu Kuwait (lưu huỳnh 2,52%). Các đối tác nước ngoài như Kuwait Petroleum (nắm 35,1% NSR) và các nhà thầu PSC đóng vai trò chiến lược.
Chính phủ kiểm soát giá năng lượng và thị trường. Giảm thuế LNG từ 5% xuống 2% hỗ trợ quá trình chuyển dịch. Quy hoạch Điện VIII đặt mục tiêu 23 dự án điện khí, gồm 7.900 MW khí nội địa và 22.400 MW LNG nhập khẩu. Chiến lược phát triển năng lượng 2030 yêu cầu đáp ứng 70% nhu cầu xăng dầu trong nước, tồn trữ bằng 75–80 ngày nhập ròng.
Trữ lượng tập trung ngoài khơi khiến hoạt động dễ bị ảnh hưởng bởi tranh chấp Biển Đông. Các mỏ hiện tại suy giảm tự nhiên 15–25%/năm, đòi hỏi đầu tư mới và công nghệ nâng cao thu hồi. Dự án Lô B (Malay Basin) kỳ vọng cung cấp thêm 0,4 tỷ feet khối/ngày vào 2030.
Hạ tầng LNG là mũi nhọn: Cảng Thị Vải và sắp tới là cảng Hải Linh (9/2024) – tạo chuỗi đầu tư dài hạn. Năng lượng tái tạo và điện LNG (22,4 GW đến 2030) là xu hướng ưu tiên. Mở rộng Dung Quất được phê duyệt điều chỉnh chính sách đầu tư từ 5/2023.
PV GAS với vị thế độc quyền khí và LPG – mang lại dòng tiền ổn định và ít rủi ro. Khai thác thượng nguồn có biên cao nhưng cần theo dõi chi phí khai thác và bổ sung trữ lượng. Xuất khẩu dầu thô với lưu huỳnh thấp là lợi thế giá trong điều kiện thiếu công suất lọc dầu toàn cầu.
Ngành dầu khí Việt Nam đang ở giai đoạn chuyển đổi trọng yếu từ mô hình truyền thống sang hạ tầng LNG và năng lượng sạch hơn. Cơ hội đầu tư nổi bật tập trung vào hạ tầng LNG, điện khí, phân phối trong nước và hiện đại hóa lọc hóa dầu. Chính sách hỗ trợ mạnh mẽ, nhu cầu năng lượng tăng trưởng và vai trò chiến lược trong an ninh năng lượng giúp ngành duy trì sức hấp dẫn đầu tư dài hạn, dù vẫn tồn tại rủi ro thực thi và biến động giá hàng hóa.