Yêu cầu hưởng bảo hiểm thất nghiệp lần đầu là số lượng hồ sơ xin trợ cấp thất nghiệp của các lao động tại Mỹ, được đưa vào báo cáo hàng tuần về bảo hiểm thất nghiệp. Báo cáo này, được công bố từ năm 1967, cũng bao gồm thống kê số lao động đang nhận trợ cấp thất nghiệp, được gọi là yêu cầu tiếp tục.
Điểm nổi bật
"Yêu cầu lần đầu" là báo cáo của chính phủ về số người lao động lần đầu xin trợ cấp thất nghiệp sau khi mất việc.
Báo cáo theo dõi tình trạng thất nghiệp mới phát sinh hàng tuần và được công bố vào 8:30 sáng EST thứ Năm hàng tuần, theo số liệu từ tuần trước đó.
Yêu cầu thất nghiệp lần đầu có thể là chỉ số dẫn dắt hữu ích vì khi số liệu tăng cao thường báo hiệu sự suy yếu kinh tế và ngược lại.
Yêu cầu lần đầu cho thấy xu hướng sa thải gần đây nhưng không cung cấp bức tranh toàn diện về thị trường lao động.
Con số này được các nhà hoạch định chính sách sử dụng cùng với các dữ liệu khác về việc làm để đánh giá sức mạnh của thị trường lao động. Đây cũng là số liệu được các nhà phân tích tài chính quan tâm vì nó cung cấp cái nhìn sâu sắc về tình trạng của nền kinh tế. Thông thường, số yêu cầu thất nghiệp lần đầu sẽ tăng trước khi kinh tế bước vào suy thoái và giảm trước khi kinh tế phục hồi, làm cho chúng trở thành một chỉ báo dẫn dắt hữu ích.
Báo cáo này được Bộ Lao động Hoa Kỳ (DOL) công bố vào thứ Năm hàng tuần. Các cơ quan lao động tại bang thu thập dữ liệu từ văn phòng thất nghiệp địa phương và gửi đến DOL.
Số yêu cầu lần đầu được báo cáo cho tuần kết thúc vào thứ Bảy trước đó. Số liệu yêu cầu tiếp tục được báo cáo cho tuần kết thúc 12 ngày trước đó. Các số liệu này được báo cáo cả theo danh nghĩa và theo điều chỉnh theo mùa. Báo cáo cũng cung cấp số liệu trung bình trong 4 tuần cho cả hai loại yêu cầu.
Các số liệu yêu cầu lần đầu có thể dao động mạnh và bị ảnh hưởng bởi nhiều lý do như ngày lễ và thời tiết, không cung cấp được bức tranh toàn diện như báo cáo việc làm hàng tháng của DOL.
Do không phải tất cả người lao động đều đủ điều kiện nhận bảo hiểm thất nghiệp, số liệu yêu cầu lần đầu không phản ánh các mất mát việc làm của phần lớn lao động làm việc bán thời gian hay tạm thời.
Ngoài ra, vì các hồ sơ hưởng bảo hiểm thất nghiệp thường xuất phát từ tình trạng sa thải, số liệu này không ghi nhận quyết định tự nghỉ việc của người lao động vì nhiều lý do khác nhau. Những điều này sẽ xuất hiện trong Khảo sát Cơ hội Việc làm và Biến động Lao động (JOLTS) hàng tháng của Bộ Lao động.
Báo cáo này dựa vào dữ liệu do các bang thu thập, và đã bị ảnh hưởng trong giai đoạn đầu của đại dịch COVID-19 do số lượng lớn các hồ sơ tồn đọng và hệ thống xử lý lỗi thời tại các bang.
Sức mạnh của nền kinh tế Mỹ đóng vai trò lớn trong việc xác định đồng USD giao dịch với các đồng tiền khác. Điều này phần nào do nền kinh tế mạnh thường gắn với lãi suất cao hơn, làm cho đồng tiền trở nên hấp dẫn hơn.
Các nhà giao dịch ngoại hối có thể coi số liệu yêu cầu lần đầu cao hơn dự kiến là tiêu cực cho USD, trong khi số liệu thấp hơn dự kiến là tích cực. Ví dụ, một nhà giao dịch có thể sẽ mua USD nếu số liệu yêu cầu lần đầu là 187.000 so với 215.000 của tuần trước và dự kiến là 210.000.
Ngược lại, với thị trường trái phiếu, số liệu cao hơn dự kiến là tín hiệu tích cực, trong khi số liệu thấp hơn là tiêu cực. Số liệu yêu cầu thất nghiệp cao thường được coi là dấu hiệu suy yếu kinh tế, liên quan đến lãi suất giảm và giá trái phiếu tăng.
Yêu cầu thất nghiệp cũng là một yếu tố trong các mô hình và chỉ số, chẳng hạn như là một trong 10 thành phần của Chỉ số Tổng hợp về Chỉ số Dẫn dắt của Hội đồng Hội nghị.